Diogenes thành Sinope
nói với Alexandros xứ Macedonia rằng: Nhà vua hãy làm ơn bỏ cái bóng của
ngài ra khỏi người tôi. Cùng thời đại, ở phương Đông, Nhan Xúc nói với Tề Tuyên
Vương: Vua lại đây.
Xem thêm: Trí thức: Hãy làm ơn bỏ cái bóng của ngài ra khỏi người tôi
Xem thêm: Trí thức: Hãy làm ơn bỏ cái bóng của ngài ra khỏi người tôi
Tề Tuyên Vương phật ý, bầy
tôi nhà vua trách móc Nhan Xúc. Xúc nói: Vua bảo lại, mà Xúc vâng lời đấy là
Xúc trọng quyền uy. Xúc bảo vua lại đây mà vua lại, ấy là nhà vua trọng kẻ sĩ. Đến vua còn sợ người có học, nhưng đám công nông ngày nay thì không sợ gì cả.
Nhưng Sĩ cũng có dăm bẩy đường Sĩ
Nước Tàu thời Tiên Tần, bách
gia tranh minh, xuất hiện tầng lớp có học gọi là sĩ, nhưng trên kẻ sĩ lại là bậc
hiền nhân. Lão Tử nói: Đạo mất rồi mới có Đức, Đức mất rồi hình án mới thành,
thiên hạ rối ren, nên trị quốc trước phải Vô Vi tức là thuận theo Đạo. Sau ông
chán thế tục cưỡi trâu đi về phía Tây mất hút.
Khổng Tử có ba ngàn đệ tử, học
trò giỏi có tới 72 người, cũng chỉ là anh lang thang khắp nơi, đi tìm minh quân
để thi thố được tài năng trị quốc quảng bá Minh Minh Đức. Chẳng ai nói Khổng tử,
Lão tử là sĩ.
Nhưng đám như Thương Ưởng, Bạch
Khởi, Hàn Phi, Lỗ Trọng Liên, đến Tô Tần, Dương Nghi, thậm chí đến tên thích
khách là Kinh Kha thảy đều được coi là sĩ. Kẻ sĩ không khuất phục trước uy vũ,
không bị nghèo khó làm thay đổi chí hướng.
Lỗ Trọng Liên từng thề độc: Nếu
Tần xưng Đế, tôi thà nhảy xuống biển Đông tự vẫn, chứ không chịu làm tôi nhà Tần.
Lời đó làm làm quân Tần đang vây thành Hàm Đan (kinh sư nước Triệu) thất kinh,
phải lui mấy chục dặm. Kinh Kha một chút kiếm thuật không biết dám mang thủy chủ
hành thích Tần Vương Doanh Chính.
Đấy đều là chết vì tri kỷ cả.
Sĩ càng về sau càng đông: Mạnh
Thường Quân (nước Tề) nuôi trong nhà đến mấy ngàn người gọi là Sĩ; Bình Nguyên
Quân nước Triệu cũng có mấy ngàn kẻ sĩ đến ăn ké, rồi Tín Lăng Quân nước Ngụy,
Xuân Thân Quân nước Sở đều học theo mốt ấy.
Đám này ngàn người không được
lấy một vài người có thực tài, giỏi bắt chước tiếng chó sủa, gà kêu cũng gọi là
sĩ. Họ thấy đâu có ăn thì cũng bâu vào, thấy chủ thất cơ lỡ vận thì bỏ đi sạch
trơn, Chiến quốc sách có truyện Kẻ sĩ tranh ăn để diễu cợt tinh thần của kẻ sĩ đương thời.
Ở xứ ta, Sĩ trở thành một
giai tầng khi nhà nước mở khoa thi, kén người có thực học để bổ vào việc quản
trị quốc gia. Màn khai mở của kẻ sĩ xứ Nam, màn kết thúc đều thẫm đẫm bi ai.
Sĩ nước Nam từ hưng đến tàn
Lê Văn Thịnh trạng nguyên
khai bảng xứ Nam cuối cùng can án hóa Hổ giết vua, bị lưu đày, chết không được
thấy mặt chân chúa. Cần Vương là cơn hấp hối, co giựt lần cuối của Sĩ phu xứ
này trước sóng gió cuộn dâng của thời đại.
Việc các vương triều xứ Nam học
theo Tàu mở khoa thi kén chọn nhân tài cho việc trị quốc đã làm nẩy nở tầng lớp
Sĩ. Kẻ sĩ thời này chỉ biết có kiến thức Nho gia, giữ gìn truyền thống lại hay
hoài cổ Nghiêu Thuấn cho nên chỉ có thể gọi là Nho sĩ.
Nho sĩ chứ không phải là Sĩ như như thời Tiên Tần bách gia tranh Minh, Mạnh Tử có bộ Đại Học, Hàn Phi Tử lập
thuyết trọng pháp, Ngô Khởi, Bạch Khởi cầm binh trăm trận bất bại…
Nho sĩ lâu dần thì biến thành
giới công chức có học, chẳng còn là trí thức quốc gia nữa, mặc thế cốt cách sĩ vẫn còn. Đắc thế (được vua yêu) thì họ làm quan, nhỏ thể trị lý một huyện, lớn
thì làm tới tể tướng ra tay định quốc an bang, biên soạn sử sách, chế định pháp
luật, chỉnh trang quy củ triều đình. Thất thế, bị vua ruồng bỏ thì cáo lão, hoặc
từ quan về quê cày ruộng, dạy học.
Cho nên lại có thêm cái gọi
là đạo xuất xử của kẻ sĩ, lại thường có câu công thành thân thoái. Cái ngạo nghễ
phải kể đến Nguyễn Công Trứ: Lúc đắc thế vinh hiển, cầm quân dẹp hết Đông Đoài,
về già thì lấy mo cau che bướm bò gọi là bịt miệng thế gian.
Quân vương ta cũng như Tàu
không trọng đám sĩ này là mầm loạn bắt đầu. Nhưng đám Sĩ chỉ có một câu làm tôn
chỉ: Trung Quân Báo Quốc, vua không dùng nữa thì bỏ về quê cày ruộng, đào tạo
ra đám công chức Nho gia in như mình.
Cũng may ngày đó chưa có
Facebook, nên không có đám cư dân mạng hò hét tán tụng, kêu gọi họ lập đảng mới
đối đầu với vua. Làng quê yên bình nuôi dưỡng họ cả cái ăn lẫn tâm hồn.
Trong lịch sử ngàn năm kẻ sĩ nước Nam chỉ có hai người dám tạo phản một là Nguyễn Danh Phương – tên học trò
thi trượt, hai là đứa cao ngạo Cao Bá Quát. Cả hai đều chuốc lấy họa diệt tộc
vong thân, chết chả còn mầm mống nào.
Thời cận đại, người Pháp với
văn minh Công nghiêp vào khai sáng xứ An Nam, mệnh của Nho sĩ đến đây sắp tuyệt,
sự xơ cứng rồi cũng bị tiêu diệt để một văn minh mới thay thế.
Cần Vương cơn hấp hối của Sĩ
phu lại phải hội đủ mấy yếu tố: 1 là vua cần (tức là chiếu Cần Vương của Hàm
Nghi), hai là quốc dân cần (nền độc lập bị đe dọa), ba quyền lợi giai tầng bị đụng
chạm. Cần Vương kéo dài cả thảy mươi năm, kết thúc vào năm 1896 với cảnh người
chết, người bỏ trốn, người vô kế khả thi ra hàng về quê sống nốt ngày tàn.
Dật sự
Trăm năm qua thấm đẫm bi ai,
lịch sử đầy ai oán, trí thức cả cũ lẫn mới đều tan thành mây khói, thành quá khứ,
lại có thời có đám Trí thức công nông, ăn như nông dân, ở như công nhân, lòng
trung trinh với Đảng, đã Hồng lại còn Chuyên. Đám ấy giờ thở ra một nửa thì chả
còn tý Hồng nào, một nửa thì thành độc tài móm răng, thực là rối ren, bát nháo.
Giờ có câu ca rằng: Nước non Việt Nam ta không người, lại có câu ca: Đất nước mai vẫn còn, còn có những đứa, dù đi xa muôn phương vẫn nhớ về. Xứ Nam có kẻ ôm bồ kinh luân, đéo chết vì tri kỷ, chỉ vì miếng cơm manh áo sắp tạo phản đến nơi, sợ chưa?
Giờ có câu ca rằng: Nước non Việt Nam ta không người, lại có câu ca: Đất nước mai vẫn còn, còn có những đứa, dù đi xa muôn phương vẫn nhớ về. Xứ Nam có kẻ ôm bồ kinh luân, đéo chết vì tri kỷ, chỉ vì miếng cơm manh áo sắp tạo phản đến nơi, sợ chưa?
+ nhận xét + 2 nhận xét
Đéo bị chặn nữa à
quê hương là chùm khế ngọt, nên phải về
Đăng nhận xét